Hãy là người đầu tiên thích bài này
Thuế áp dụng cho các hộ kinh doanh cao hay thấp?
Từ ngày 1/6/2025, cá nhân và hộ kinh doanh có doanh thu trên 1 tỷ đồng mỗi năm sẽ phải bỏ cơ chế thuế khoán vốn quen thuộc để chuyển sang áp dụng mức thuế tính trên doanh thu, linh hoạt tùy theo nhóm ngành nghề. Chính sách mới này được kỳ vọng mang lại sự minh bạch, hạn chế thất thoát ngân sách, nhưng cũng làm dấy lên câu hỏi quan trọng về tính phù hợp của mức thuế áp dụng?
 
Trong bối cảnh hiện nay, khi thương mại điện tử và thanh toán số phát triển rộng rãi, Bộ Tài chính đã quyết định thay đổi toàn diện cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh. Theo đó, mọi giao dịch bán hàng đều phải được ghi nhận bằng hóa đơn điện tử xuất trực tiếp từ máy tính tiền và dữ liệu sẽ được gửi trực tiếp về Tổng cục Thuế. Tuy nhiên, sự thay đổi này đặt ra không ít áp lực cho các hộ kinh doanh khi họ phải trang bị thêm máy móc, phần mềm và hệ thống kết nối, đặc biệt là những hộ kinh doanh nhỏ lẻ vốn không thường xuyên sử dụng các tiện ích thanh toán mà chỉ ghi nhận thông qua hóa đơn sổ sách. Những chi phí mới này cộng với thời gian tìm hiểu và thích nghi công nghệ mới có nguy cơ bào mòn đáng kể nguồn lợi nhuận vốn đã mỏng manh của các hộ kinh doanh và tiểu thương, làm họ chịu thêm các khoản gánh nặng về chi phí đầu tư và vận hành hệ thống trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
 
Tuy nhiên, mục tiêu chính của sự thay đổi này là nhằm tạo ra một sân chơi minh bạch và công bằng hơn giữa hộ kinh doanh và các doanh nghiệp chính thức. Trước đây, các doanh nghiệp luôn phải đóng mức thuế thu nhập doanh nghiệp 20% tính trên lợi nhuận, trong khi nhiều hộ kinh doanh lớn có doanh thu rất cao vẫn đóng thuế rất ít nhờ khai báo doanh thu thấp hoặc báo lỗ. Sự chênh lệch lớn về nghĩa vụ thuế này đã gây ra hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí khiến nhiều doanh nghiệp phải chia nhỏ mô hình để tận dụng lợi thế của hộ kinh doanh. Khi áp dụng mức thuế suất tính trên doanh thu, các nhà làm chính sách hy vọng sẽ giảm đáng kể tình trạng thất thu thuế, đồng thời thúc đẩy các hộ kinh doanh lớn chủ động chuyển đổi thành doanh nghiệp để được hưởng quyền khấu trừ các chi phí liên quan. Tuy nhiên, thực tế mức độ ảnh hưởng của chính sách lại có sự tác động khác nhau khi phụ thuộc lớn vào mức biên lợi nhuận đặc thù của từng ngành.
 
So sánh mức thuế với các doanh nghiệp niêm yết
 
Mức thuế đối với hộ kinh doanh sẽ linh hoạt đối với từng nhóm ngành nghề khác nhau, trong đó mức thuế thấp nhất đang thuộc về nhóm kinh doanh hàng hóa, bao gồm 1% thuế giá trị gia tăng dựa trên doanh thu và 0,5% thuế thu nhập cá nhân tính trên doanh thu tính thuế thu nhập cá nhân. Tính gần đúng thì có thể xem các hộ kinh doanh ngành này đang chịu mức thuế khoảng 1.5% doanh thu.
 
Trước khi đưa ra kết luận về việc thuế 1,5% doanh thu là cao hay thấp, cần xác định rõ tiêu chuẩn để so sánh. Mức thuế đánh trên doanh thu chỉ thực sự có ý nghĩa khi đặt cạnh lợi nhuận mà người kinh doanh giữ lại sau khi đã trừ hết chi phí. Với một số ngành nghề có biên lợi nhuận rất mỏng, nghĩa là trên một trăm đồng doanh thu chỉ thu về được vài đồng lãi thì mức thuế trên đã đủ để ăn mòn gần hết lợi nhuận. Ngược lại, với các lĩnh vực có biên lợi nhuận cao hơn thì mức thuế nói trên sẽ ít áp lực hơn.
 
 
Biên lợi nhuận ròng chính là thước đo phản ánh rõ nét tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Khi áp dụng mức thuế cố định lên doanh thu, lập tức sẽ thấy gánh nặng thuế hiệu dụng thay đổi đáng kể giữa các ngành. Điển hình như trường hợp của ngành bán lẻ điện máy, công ty Thế Giới Di Động năm 2024 ghi nhận mức doanh thu 134.341 tỷ đồng nhưng lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 3.733 tỷ đồng, tương ứng với biên lợi nhuận ròng là 2,78%. Nếu Thế Giới Di Động hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh, mức thuế 1,5% doanh thu tương đương số tiền thuế phải nộp là 2.015 tỷ đồng, chiếm tới 54% lợi nhuận ròng. Đây là con số rất lớn, vượt xa mức thuế thu nhập doanh nghiệp 20% lợi nhuận mà doanh nghiệp đang phải chịu. Phần lớn các hộ kinh doanh ở Việt Nam sẽ hoạt động nhiều trên lĩnh vực bán lẻ nên con số so sánh về tỷ lệ thuế thu nhập trên doanh thu của các đơn vị bán lẻ hàng đầu kể trên sẽ cho thấy mức thuế 1.5% có thể đang tương đối cao so với các hộ kinh doanh trong lĩnh vực bán lẻ.
 
Trong lĩnh vực bán lẻ thì mức biên lợi nhuận cũng sẽ phụ thuộc nhiều vào dòng sản phẩm mà doanh nghiệp đó đang bán. Đối với các doanh nghiệp bán lẻ các sản phẩm truyền thống, có uy tín thương hiệu như những công ty niêm yết chúng ta đang phân tích ở trên thì biên lãi gộp chỉ vào khoảng 15-20%, trừ hết chi phí thì mức biên lãi ròng chỉ còn khoảng 2-4% đối với những doanh nghiệp vận hành tốt. Muốn có biên lợi nhuận cao hơn thì các doanh nghiệp bán lẻ sẽ có thể phải hướng đến việc phân phối các sản phẩm chất lượng thấp hơn, uy tín thấp hơn để nâng biên gộp lên. Đó là một hành vi kinh doanh hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt là đối với các hộ kinh doanh.
 
Sự tác động từ chính sách thuế mới giữa các ngành nghề
 
Tỷ lệ giữa thuế và lợi nhuận giúp hình dung phần nào gánh nặng thuế đối với các hộ kinh doanh, tuy nhiên con số này chưa thể lý giải rõ tại sao cùng một mức thuế cố định lại gây ra những tác động rất khác biệt giữa các ngành. Lý do chính nằm ở cấu trúc chi phí đặc trưng của mỗi mô hình kinh doanh.
 
Ngành bán lẻ chịu áp lực lớn từ các khoản chi phí hàng hóa đầu vào, chi phí kho vận và nhân sự, khiến lợi nhuận thường xuyên bị bào mòn đáng kể. Ngược lại, các ngành dịch vụ như spa và thẩm mỹ lại hưởng lợi nhờ giá trị gia tăng lớn trên mỗi giao dịch và có chi phí tương đối ổn định. Nếu quan sát biểu đồ bên dưới về mức biên lãi sau thuế trung bình các ngành nghề trong hai năm qua thì ta có thể thấy sự chênh lệch khá lớn về biên lãi giữa ngành bán lẻ so với các ngành nghề khác. Để làm rõ hơn những tác động cụ thể này, chúng ta sẽ mô phỏng hai trường hợp điển hình với cùng mức doanh thu 5 tỷ đồng mỗi năm, một là cửa hàng bán lẻ điện thoại với biên lợi nhuận thấp, và hai là cơ sở spa có biên lợi nhuận cao.
 
Trong trường hợp một cửa hàng bán lẻ điện thoại tại TP. HCM có doanh thu đạt 5 tỷ đồng một năm, với biên lợi nhuận ròng khoảng 2%, lợi nhuận thu về là 100 triệu đồng. Áp dụng mức thuế gồm 1% GTGT và 0,5% TNCN, cửa hàng sẽ phải đóng 75 triệu đồng, tức tương đương 75% lợi nhuận thu được. Ngoài ra, cửa hàng cũng phải gánh thêm các khoản chi phí như phí sử dụng hóa đơn điện tử khoảng 2 triệu đồng một năm, máy móc và phần mềm quản trị khoảng 5 triệu đồng, cùng các khoản trích lập quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Khi thuế và các chi phí bổ sung đã chiếm phần lớn lợi nhuận, cửa hàng bán lẻ sẽ đối mặt với ba lựa chọn chính để tồn tại. Thứ nhất là tăng giá bán, nhưng giải pháp này khó khả thi do thị trường điện máy luôn cạnh tranh gay gắt về giá. Thứ hai là cắt giảm nhân sự, tuy nhiên lại làm giảm chất lượng dịch vụ hậu mãi, dẫn đến mất khách hàng. Cuối cùng, cửa hàng buộc phải tìm kiếm các nhãn hàng có chất lượng thấp hơn để có biên lợi nhuận cao, đây có thể là một hiệu ứng tiêu cực mà các cơ quan quản lý cần phải quan tâm.
 
 
Ở một kịch bản khác, một cơ sở spa thẩm mỹ cũng có doanh thu 5 tỷ đồng, nhưng biên lợi nhuận ròng là 15%, tương ứng lợi nhuận là 750 triệu đồng. Nếu vẫn áp dụng mức thuế suất 1,5% doanh thu như lĩnh vực bán lẻ ở trên khi đó tương ứng mức thuế 75 triệu đồng, chỉ bằng khoảng 10% lợi nhuận ròng, thấp hơn nhiều so với mức thuế thu nhập doanh nghiệp 20% lợi nhuận. Các chi phí chủ yếu của spa như thiết bị, vật liệu và lương nhân viên thường được cố định, trong khi doanh thu phần lớn phụ thuộc vào kỹ năng chuyên môn và trải nghiệm khách hàng. Thêm vào đó, việc áp dụng hóa đơn điện tử còn giúp nâng cao uy tín và chất lượng dịch vụ thông qua việc khách hàng dễ dàng nhận hóa đơn, thanh toán trả góp và đặt lịch trực tuyến, nhờ đó có thể tăng lượng khách hàng quay lại. Do đó, ngành dịch vụ thẩm mỹ không chỉ hưởng lợi từ mức thuế thấp hơn doanh nghiệp mà còn có khả năng gián tiếp chuyển một phần chi phí vào giá dịch vụ, do khách hàng ít nhạy cảm với thay đổi giá hơn so với thị trường bán lẻ điện thoại.
 
Chính vì vậy, mức thuế của những lĩnh vực có biên lợi nhuận cao như spa sẽ cao hơn so với nhóm bán lẻ. Điều này cũng góp phần giải thích tại sao mức thuế áp dụng đối với các hộ kinh doanh cũng khác nhau giữa các nhóm ngành nghề khác nhau. Đối với các hộ kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ và xây dựng thì mức thuế đang áp dụng sẽ là 5% đối với thuế giá trị gia tăng và 2% đối với thuế thu nhập cá nhân. Trong khi đó, mức áp dụng đối với lĩnh vực sản xuất, vận tải và dịch vụ thì lần lượt là 3% và 1.5%. Mức thuế áp dụng đối với các ngành nghề khác lần lượt là 2% và 1%. Với tổng mức thuế khoảng 7% trên doanh thu thì mức thuế này cũng bằng khoảng 30% so với lợi nhuận sau thuế. Khi đó, mức thuế của nhóm ngành này có thể vẫn đang bằng hoặc cao hơn so với các doanh nghiệp lớn cùng ngành nghề.
 
Chính sách thuế dựa trên doanh thu được xây dựng nhằm hạn chế thất thu và thúc đẩy sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh của các hộ lớn. Tuy nhiên, tính đơn giản của chính sách này chỉ là vẻ bề ngoài, bởi khi xem xét kỹ lưỡng qua góc nhìn lợi nhuận theo ngành, gánh nặng thuế thực tế có thể rất lớn với một số ngành đặc thù. Giải pháp cho vấn đề trên để hạn chế những tác động tiêu cực của chính sách đến một số ngành nghề, làm giảm động lực kinh doanh hay những biến tướng tiêu cực trong kinh doanh… là những điều cần phải bàn sâu hơn để đảm bảo cả tính công bằng và nhân văn của chính sách.
 

Bình luận (2)

Bán lẻ thức ăn chăn nuôi biên lợi nhuận thấp nhưng giá vốn cao chưa kể bị khách nợ không thu được. Thuế mặc định thu 1.5% doanh thu bất kể đại lý có thu được tiền sau bán hàng hay không...haiz
15:04
T thấy bào hơi ít , giờ hkd ngáp ngáp sau dịch covid tới giờ rùi , phải áp thuế 50-70% nó mới dẹp hẳn chứ giờ hkd vẫn còn thoi thóp 😂😂😂
16:21

FIREANT MEDIA AND DIGITAL SERVICE JOINT STOCK COMPANY

Giấy phép MXH số 251/GP-BTTTT do Bộ TTTT cấp ngày 23/05/2022
Chịu trách nhiệm nội dung: Ngô Minh Long. Hotline: 1900.633.543