7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam chi hơn một tỷ USD để nhập khẩu 534.800 tấn thịt và các sản phẩm từ thịt; Ấn Độ, Nga và Mỹ tiếp tục là ba nguồn cung lớn nhất.
Số liệu của Cục Hải quan cho thấy, 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 13.050 tấn thịt và các sản phẩm thịt với kim ngạch 68,75 triệu USD, giảm 2,6% về lượng nhưng tăng 22,6% về giá trị so với cùng kỳ năm trước (YoY).
Trong kỳ, Việt Nam xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt sang 28 thị trường, Hong Kong (Trung Quốc) tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất khi chiếm 46% về lượng và 60% về giá trị. Cụ thể, lượng thịt và sản phẩm thịt xuất khẩu sang Hong Kong đạt 6.080 tấn với kim ngạch 41,1 triệu USD, tăng 8% về lượng và 23,6% về giá trị. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là thịt lợn sữa nguyên con đông lạnh và thịt lợn nguyên con đông lạnh.
Trong kỳ, lượng và kim ngạch xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam sang một số thị trường tăng cao như Trung Quốc, Canada, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Liban… Trong khi đó, một số thị trường lại ghi nhận đà giảm như Bỉ, Mỹ, Malaysia, Campuchia…
Về cơ cấu, lũy kế 7 tháng đầu năm 2025, thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn nhất với 38% về lượng và 55% về kim ngạch. Lượng xuất khẩu mặt hàng này đạt 4.900 tấn, đạt 37,6 triệu USD, lần lượt giảm 9% và tăng 18,5% so với cùng kỳ.
Các nhóm hàng đứng sau bao gồm thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của gia cầm thuộc nhóm 01.05 tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 28,7% về lượng và 20,7% về giá trị; thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 32,8% về lượng và chiếm 23,3% về trị giá.
Về nhập khẩu, theo Cục Hải quan, 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu 534.800 tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, đạt 1,06 tỷ USD, tăng lần lượt 11% về lượng và 13,1% về giá trị so với cùng kỳ.
Ấn Độ tiếp tục là thị trường cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam với 95.500 tấn, đạt 334,5 triệu USD, giảm lần lượt 10,8% về lượng và 4,7% về kim ngạch.
Việt Nam cũng giảm nhập khẩu mặt hàng này từ một số thị trường như Australia, Hà Lan, Iran, Đan Mạch, Trung Quốc, UAE… Trong khi đó, Việt Nam tăng nhập thịt và sản phẩm từ thịt với các thị trường như Nga, Mỹ, Brazil, Ba Lan, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Hong Kong (Trung Quốc), Thổ Nhĩ Kỳ, Italy, Pháp, Bỉ, New Zealand, Angeria…
Về cơ cấu mặt hàng, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm thuộc nhóm 01.05, tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (chiếm 39,4% về lượng và chiếm 20% về trị giá).
Các nhóm hàng đứng sau bao gồm thịt trâu tươi đông lạnh chiếm 16% về lượng và chiếm 28,6% về giá trị; phụ phẩm ăn được sau giết mổ của lợn, trâu, bò sống ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm lần lượt 19,6% và 13,6%; thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 16,1% và 21,6%; thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 3,7% và 12,8%.
Về thịt lợn, trong kỳ, Việt Nam chi 230,7 triệu USD để nhập khẩu 86.100 tấn thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh, tăng 68,7% về lượng và 98,5% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.
Giá trung bình nhập khẩu thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh về Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 ở mức 2.676 USD/tấn, tăng 17,7% so với cùng kỳ.
Việt Nam nhập khẩu thịt lợn từ 21 thị trường. Nga tiếp tục là thị trường cung cấp mặt hàng này lớn nhất cho Việt Nam khi chiếm 47,5% về lượng. Các thị trường đứng sau bao gồm Brazil chiếm 32%, Tây Ban Nha chiếm 5%, Canada chiếm 4,4%, Ba Lan chiếm 3,2%, các thị trường khác chiếm 8%.





